Phong trào khởi nghĩa Đốc Tít lan rộng ra nhiều địa phương, liên kết chặt chẽ với cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy (Hưng Yên), với Tiền Đức ở Cát Bà. Nghĩa quân đã tổ chức nhiều trận đánh lớn, gây cho quân Pháp và triều đình nhà Nguyễn nhiều tổn thất.
Đốc Tít, sinh năm 1853, tên thật là Mạc văn Tích (Tiết), tự Tất Thắng, người làng Lưu Thượng. nay thuộc thị trấn Kinh Môn. tinh Hải Dương. Ông đổi sang họ Nguyễn, vềvùng này định cư, lấy vợ người làng Phù Lưu (nay thuộc xã Phù Ninh), Thủy Nguyên. Từ năm 1882, ông đã có những hoạt động chuẩn bị chống thực Pháp ở cù lao Hai Sông (sông Kinh Thày, Kinh Môn), một vùng núi đá, sông nước hiểm trở. Ông đã từng tham gia diệt cướp ở phủ Kiến Thụy và Cẩm Giàng, được triều đình phong chức Quân tinh binh suất đội, rồi Cấm suất đội. Năm 1885, khi có chiêu cần Vương, ông gia nhập khởi nghĩa Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật. Tháng 10 năm Đồng Khánh thứ nhất (1886), vua Hàm Nghi phong cho ông chức Đề đốc Quân vụ Hải Dương nên mọi người thường gọi là Đốc Tít. Ông đã chọn động Thiên Khai, chùa Kim Liên và làng Trại Sơn (xã An Sơn, Thủy Nguyên), nơi địa thế hiểm trở có rừng núi, hang sâu, có cù lao đầy lau sậy kẹp giữ hai dòng Kinh Thầy – Bạch Đằng, làm căn cứ (được gọi là căn cứ Hai Sông).
Căn cứ Trại Sơn được xây dựng thành các phòng tuyến phòng ngự. Ngoài cùng là hào sâu, lũy cao, trồng tre gai xung quanh làng. Hang Thung, có địa thế cao, là nơi đặt hỏa lực và núi Hưng đặt tuyến xạ giới. Chùa Kim Liên là nơi đặt đại bản doanh được đào hào, đắp lũy, trồng tre bao quanh. Cuối năm 1883, đội quân của Đốc Tít đã có tới 600 người và 20 tướng lĩnh, đến cuối năm 1884 tăng lên trên nghìn người và 40 tướng lĩnh, trong đó có 2 người ở Trại Sơn, 2 người ở An Ninh Nội, An Ninh Ngoại. Tháng 8 năm Ất Dậu (1885), tại sân chùa Kim Liên, Trại Sơn, nghĩa sĩ hội quân tế cờ, tuyên thệ, nêu khẩu hiệu: Linh sơn động chủ xướng nghĩa bình Tây.
Phong trào khởi nghĩa Đốc Tít lan rộng ra nhiều địa phương, liên kết chặt chẽ với cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy (Hưng Yên), với Tiền Đức ở Cát Bà. Nghĩa quân đã tổ chức nhiều trận đánh lớn, gây cho quân Pháp và triều đình nhà Nguyễn nhiều tổn thất. Tiêu biểu là các trận tấn công các đồn Đông Triều, Uông Bí (Quảng Ninh), Tượng Sơn (An Lão, Hải Phòng), các huyện lỵ Gia Lộc, Tứ Kỳ, Kinh Môn (Hải Dương), đánh tàu chiến trên sông Đá Bạc (Thủy Nguyên)…
Tháng 10-1888, thực dân Pháp huy động hơn một nghìn quân, có pháo binh, tàu chiến hỗ trợ, tấn công vào chùa Kim Liên, làng Trại Sơn nhưng bị nghĩa quân tập kích, bị tổn thất nặng. Cuối tháng 7-1889, Pháp tập trung binh lực bao vây và tấn công Trại Sơn. Chúng chia thành 4 đạo, vây chặt căn cứ trung tâm, dùng tàu chiến tuần tiễu ngày đêm trên các ngả sông quanh căn cứ. Nghĩa quân liên tục phải rút. Địch thắt chặt vòng vây, tăng cường truy quét và khủng bố nhằm cắt đứt mối liên hệ giữa nghĩa quân và nhân dân. Nghĩa quân tổ chức cuộc phá vây nhưng không thành.
Để bảo toàn tính mạng cho nghĩa quân, Đốc Tít chấp nhận đàm phán ký hòa ước với Pháp, với điều kiện không được trả thù những người đã theo ông chiến đấu chống xâm lược. Cuộc đàm phán được tổ chức tại đình làng Phù Lưu Nội (xã Phù Ninh). Ông bị Hoàng Cao Khải, đại diện đàm phán của triều đình nhà Nguyễn, lừa bắt nộp cho Pháp (ngày 12-8-1889). ông bị thực dân Pháp đày đi Angiêri. Mãn hạn tù, ông bị đưa về Pháp quản thúc và mất tại đó năm 1916. Sau này, thi hài ông được đưa về an táng tại quê nhà.