Nhân 736 năm ngày mất của vua Trần Thái Tông (5/5/1277- 5/5/2013), vị vua đầu tiên của Triều Trần, chúng tôi xin giới thiệu đôi nét về cuộc đời và công lao to lớn của ông đối với nhà Trần cũng như đối với lịch sử Việt Nam.

Vua Trần Thái Tông tên thật là Trần Bồ, sau đổi tên là Trần Cảnh. Ông sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần (1218), niên hiệu Kiến Gia thứ 8 triều Lý (tức 10 tháng 7 năm 1218). Ông là con thứ của Trần Thừa, một quan Phụ Chính Thái úy dưới triều Lý. Khi ông sinh ra, triều Lý đang ở thời kỳ suy vi. Năm 1225, với sự sắp đặt của người chú họ là Trần Thủ Độ, khi đó đang là Điện Tiền Chỉ huy sứ trong triều Lý; nữ hoàng đầu tiên và là vua cuối cùng của Triều Lý là Lý Chiêu Hoàng, khi đó mới 7 tuổi đã lấy Trần Cảnh và nhường ngôi cho ông lên làm vua lấy hiệu là Trần Thái Tông. Chiêu Thánh Hoàng hậu lấy Thái Tông đã 12 năm (tức 19 tuổi) mà vẫn chưa có con, trong khi triều Trần cần phải có Hoàng tử.

Vì thế, Thái sư Trần Thủ Độ đã ép vua Thái Tông bỏ Chiêu Thánh giáng xuống làm công chúa, rồi đem chị của Chiêu Thánh là Thuận Thiên, khi đó là vợ của Trần Liễu (anh trai của vua Thái Tông) đã có thai vào lập làm Hoàng hậu. Trần Liễu kéo quân làm loạn trong triều. Thái Tông đang đêm trốn lên chùa Phù Vân (Yên Tử – Quảng Ninh) tỏ ý phản đối. Khi Trần Thủ Độ đem quân đến đón về, Thái Tông từ chối và nói rằng: “Trẫm còn nhỏ dại, không kham nổi việc to lớn, các quan nên chọn người khác để khỏi nhục xã tắc”. Thuyết phục mãi mà Thái Tông không đổi ý, Trần Thủ Độ bèn nói với các quan, quân: “Hoàng thượng ở đâu là triều đình ở đó”, rồi truyền lệnh xây dựng cung điện trên chùa Phù Vân.

Vị quốc sư ở chùa phải van lạy, khuyên giải mãi, Thái Tông mới chịu quay về. Vốn là người nhân đức, nhân từ nên trong quá trình trị vì, vua Trần Thái Tông đã cảm hóa được anh em và con cháu và tránh được những thù hận sau này. Sử sách ghi lại rằng: ông đã lấy thân che gươm cứu Trần Liễu khỏi bị Trần Thủ Độ chém vì tội phản nghịch. Chẳng những thế, Thái Tông còn cấp ruộng đất làm thái ấp và phong cho Trần Liễu làm An Sinh Vương.

Sau này, chính Thái Tông cũng cảm phục được Trần Quốc Tuấn (con của Trần Liễu), dẹp bỏ thù riêng, không nghe lời di chúc thù hận của cha là Trần Liễu, hết lòng phò vua Thái Tông chống giặc. Cũng có lẽ nhờ ân đức của mình mà ông có nhiều người con đã trở thành những tướng tài trong lịch sử Đại Việt, có công giúp vua chống giặc Nguyên – Mông như Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật. Trong 33 năm làm vua (1225-1258), Trần Thái Tông đã 3 lần đổi niên hiệu: Kiến Trung (1225-1231), Thiên Ứng Chính Bình (1232-1250) và Nguyên Phong (1251-1258).Trong thời gian trị vì đất nước, Trần Thái Tông đã có công lớn lãnh đạo nhân dân Đại Việt chống lại thành công cuộc xâm lược lần thứ nhất của quân Nguyên- Mông.

Vào đầu thế kỷ XIII, trên vùng thảo nguyên rộng lớn thuộc đất nước Mông Cổ ngày nay, đã hình thành một quốc gia quân sự độc tài, hùng mạnh với những đạo quân rất giỏi cưỡi ngựa, bắn cung, tên. Có lực lượng quân sự mạnh, dựa vào những đạo kỵ binh thiện chiến, các vua chúa Mông Cổ đã lao vào cuộc chiến tranh xâm lược các quốc gia khác.

Trong vòng nửa thế kỷ, Thành Cát Tư Hãn với đoàn quân viễn chinh khét tiếng tàn bạo, cách tấn công ào ạt, chớp nhoáng đánh đâu thắng đó đã chinh phục nhiều quốc gia khác, thành lập một đế quốc Mông Cổ rộng lớn từ bờ biển Đông Á Thái Bình Dương đến tận Hắc Hải. Nước Đại Việt cũng không nằm ngoài bối cảnh đó. Năm 1225, Triều Trần được thiết lập, vua Trần Thái Tông đã đón nhận sứ mệnh phải đẩy mạnh công cuộc dựng nước, chuẩn bị đối phó với nạn ngoại xâm.

Năm 1252, các chúa Mông Cổ cử Hốt Tất Liệt và Ngột Lương Hợp Thai đánh chiếm nước Đại Lý (Vân Nam, Trung Quốc). Năm 1257, Ngột Lương Hợp Thai được lệnh đem một đạo quân từ Vân Nam đánh chiếm Đại Việt để mở rộng gọng kiềm vu hồi đánh vào phía nam nước Nam Tống. Trước khi xuất quân, Hốt Tất Liệt, sai sứ sang đòi vua Trần đầu hàng. Trần Thái Tông và triều đình đã tống giam kẻ đại diện đế quốc Mông Cổ và tổ chức quân dân ta gấp rút chuẩn bị kháng chiến. Ông đã biết dựa vào các Tướng giỏi là Trần Thủ Độ và Trần Quốc Tuấn phất cao ngọn cờ chống giặc Nguyên – Mông. Trần Quốc Tuấn dẫn một lực lượng lên bố trí ở vùng biên giới. Đại quân ta do vua Trần Thái Tông trực tiếp chỉ huy lên lập phòng tuyến ở Bình Lệ Nguyên (Vĩnh Phúc, Phú Thọ bây giờ) chặn đường tiến quân của địch từ Vân Nam theo đường Lào Cai xuống Thăng Long.

Đầu năm 1258, quân Mông Cổ tiến vào nước ta. Đạo quân địch gồm khoảng 3 vạn tên, có lực lượng kỵ binh thiện chiến làm nòng cốt nhanh chóng tiến xuống Bình Lệ Nguyên. Sau nhiều trận giao chiến ác liệt, quân ta không thể ngăn chặn được vì thế quân giặc lúc đó quá mạnh. Vua Trần cùng đại quân phải rút về Thăng Long, sau đó rút lui về vùng Thiên Mạc (Khoái Châu, Hưng Yên ngày nay) để bảo toàn lực lượng. Dân thành Thăng Long cũng rời kinh đô, tản cư về vùng nông thôn. Quân giặc vào được thành Thăng Long, nhưng chỉ thấy một tòa thành trống rỗng, không người, không của cải, lương thực. Chúng tàn phá Thăng Long nhưng không dám tiến công tiếp vì không biết quân ta ở đâu, mở rộng chiếm đóng thì quân số có hạn. Lương thực mang theo đã hết, nguồn tiếp tế vốn không được phòng bị cho cách đánh nhanh thắng nhanh, trông chờ cướp lương để ăn thì không có. Tình thế của địch gặp khó khăn bế tắc, kế hoạch rút lui của vua Thái Tông đã phát huy hiệu quả; thời cơ phản công giết giặc, lấy lại Thăng Long của ta đã đến.

Ngày 21/1/1258 (vào tháng 12 năm Đinh Tý), trực tiếp vua Thái Tông chỉ huy quân ta ngược sông Hồng bất ngờ tấn công quyết liệt vào Đông Bộ Đầu (bến sông Hồng bây giờ). Bị bất ngờ, quân giặc thiệt hại nặng vội rút chạy khỏi Thăng Long theo con đường ven sông Hồng mà chúng vừa tiến xuống. Chạy đến Quy Hóa (Phú Thọ, Yên Bái), bị quân ta bí mật ém chờ tại đây phối hợp cùng dân binh địa phương do tù trưởng Hà Bổng chỉ huy đánh tiếp. Ngột Lương Hợp Thai cùng đám tàn quân không dám đánh lại nữa mà phải chạy tháo thân về Vân Nam. Thế là với tài thao lược của vua Trần Thái Tông và các quan triều đình, cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông lần thứ nhất của nhân dân ta giành thắng lợi.

Không chỉ là Người anh hùng trong cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông xâm lược lần thứ nhất (1257- 1258), Thái Tông trước hết là vị vua anh minh, có nhiều kế sách để trị vì và hưng thịnh đất nước. Năm 1244, Thái Tông định ra Quốc Triều thông pháp Hình luật (20 quyển). Theo Phan Huy Chú, bộ luật này răn dân rất nghiêm ngặt nên ngày đó tội trộm, cướp ít xảy ra. Tiếc rằng bộ Luật này đã bị thất lạc. Thái Tông còn là vị vua biết chăm lo cho việc học của xã tắc. Dưới thời Lý, đã mở được khoa thi nho sĩ nhưng chỉ thi tam trường.

Dưới triều vua Thái Tông, năm 1232, đã mở khoa thi Tiến sĩ, lấy đỗ tam khôi: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa; định lệ cứ 7 năm lại mở một khoa thi để tuyển người tài. Đến năm 1247, vua Thái Tông cho mở cả khoa thi tam giáo: Nho, Thích, Lão; rộng đường học vấn cho các sĩ tử. Cũng năm 1247, tại khoa thi này, Nguyễn Hiền đỗ Trạng nguyên, Lê Văn Hưu đỗ Bảng nhãn, Đặng Ma La đỗ Thám hoa. Sau khi thắng giặc Nguyên – Mông, thưởng công, phạt tội xong, vua Thái Tông tiếp tục phát triển văn hóa, kinh tế, cho đắp đê, khai khẩn ruộng, chăm lo đời sống muôn dân. Ông thường tự mình đi về tận các làng xã thăm hỏi dân chúng và giải quyết mọi công việc ngay tại đó. Ông là vị vua mở đầu cho Triều Trần đã gần gũi với quần thần và dân chúng.

Ông cũng tạo ra lệ nhường ngôi cho Thái tử khi đã đủ trưởng thành sau đó lên làm Thái Thượng Hoàng trong Triều Trần. Xuân Mậu Ngọ (1258), vua Thái Tông nhường ngôi cho Thái tử Trần Hoảng (vua Trần Thánh Tông) và làm Thái Thượng Hoàng trong 19 năm. Từ năm 1239, vua Thái Tông đã cho sửa sang quê hương Tức Mặc, dựng cung điện và thường về thăm. Năm 1262, ông đổi Tức Mặc thành phủ Thiên Trường, xây cung Trùng Quang để lui về ở lúc tuổi già; rồi xây cung Trùng Hoa, chùa Phổ Minh…

Là vị vua rất coi trọng Phật giáo, Trần Thái Tông còn là nhà Thiền học, nhà thơ, một triết gia có những tư tưởng yêu nước, thương dân sâu sắc. Năm 1256, ông đã cho đúc 330 quả chuông đồng tại các chùa. Tác phẩm của Trần Thái Tông để lại cho hậu thế có: Khóa hư lục (Tập bài giảng về đạo Phật) – đây là cuốn sách cổ nhất hiện còn giữ được trong kho thư tịch cổ nước ta; Thiền tông chỉ nam ca (Bài ca về yếu chỉ của Thiền tông), nhưng nay chỉ còn lại bài tựa; Lục thì sám hối khán nghi (Nghi thức sám hối vào sáu thời khắc trong một ngày);Trần Thái Tông ngự tập (1 quyển), được Phan Huy Chú khen là: “lời thơ thanh nhã, đáng đọc” nhưng nay đã không còn, chỉ còn lại khoảng 2 bài. Ngoài ra ông còn đề tựa Kinh Kim Cương, viết một số bài bình luận về việc tọa thiền, việc niệm Phật và một bài răn về tửu sắc… Các tác phẩm của ông đều mang đậm tính nhân văn và triết lý Phật giáo, khuyên mọi người phải tín thành, giữ mình trong sạch, người hiền răn kẻ khó, người giàu nên giúp kẻ nghèo khó và phả độ chúng sanh …Ngày mồng 1 tháng 4 năm Đinh Sửu (tức 5 tháng 5 năm 1277), vua Trần Thái Tông qua đời, thọ 60 tuổi.

Lăng mộ của vua Trần Thái Tông theo Đại Việt sử ký toàn thư thì Thái tổ Trần Thừa và các vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông được táng tại phủ Long Hưng (xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình). Là vị vua mở đầu cho Triều Trần, một triều đại huy hoàng trong lịch sử Việt Nam, vua Trần Thái Tông được coi là “gương mặt văn hóa đẹp và lạ đến khác thường trong lịch sử Việt Nam”(*). Dù chưa phải là vị vua có công lao nổi bật so với các vị vua khác trong Triều Trần, nhưng ông lại là vị vua đầu tiên có công khai phá, đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển phồn thịnh, rực rỡ của Triều Trần trong suốt 175 năm tồn tại.

Đền Trần ở Nam Định, nơi thờ các vị vua Triều Trần

Để ghi nhớ công ơn của vua Trần Thái Tông, sau khi ông mất, dân chúng đã đúc tượng và thờ phụng ông tại các Đền Trần (Thái Bình), đền Trần (Nam Định), đền Thái Vi (ở Ninh Bình) và được làm giỗ hàng năm. Ngày nay tên của vua Trần Thái Tông còn được đặt cho nhiều tên phố ở Thủ đô Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Đà Lạt, Thái Bình, Nam Định…

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here