Lần đầu tiên, Các Mác gặp Phriđơrich Ăngghen(Friedrich Engels) vào cuối tháng Mười một năm 1842, khi Ăngghen trên đường sang Anh và ghé thăm Bộ Biên tập tờ Rheinische Zeitung. Mùa hè năm 1844, Ăngghen đến thăm Mác ở Paris. Trong 10 ngày ở thăm Paris, Mác và Ăngghen đã có nhiều cuộc nói chuyện cởi mở và từ cuộc gặp gỡ này hai ông đã trở thành những người bạn cùng chung lý tưởng và quan điểm trong tất cả vấn đề lý luận và thực tiễn.
Các Mác lúc sơ sinh
Các Mác (5/5/1818 – 14/3/1883) ở thành phố Trier trên bờ sông Mozel, một nhánh của sông Rhein. Trier là một thành phố cổ của Đức, thời Trung cổ, Trier là thủ đô của một công quốc tôn giáo lớn, nơi cư trú của đại giáo chủ xứ Trier.
Thân sinh của Các Mác
Heinrich Marx là một người cha có nhân cách khác thường, học rộng, hiểu biết khá rõ về những tác phẩm của các nhà tư tưởng Pháp thế kỷ XVIII, đặc biệt về Giăng Giăccơ Russô và . Henrich Mác rất yêu quý con trai, đáp lại Các Mác cũng rất gắn bó với cha. Tình cảm cha con không hề bị suy giảm ngay cả trong thời kỳ xảy ra những bất đồng quan điểm trong nhận thức về sứ mệnh cuộc đời hai bố con.
Mẹ của C. Mác, bà Henrieta Pơretbơt vốn gốc người Hà Lan, mẹ của chín người con nên bà chỉ ở nhà làm công việc nội trợ. Thế giới tinh thần của bà bị bó hẹp và bà không trở thành người bạn thực sự của con trai như bố đối với C. Mác. Trong bốn anh em trai và năm chị em gái thì C. Mác là người con yêu trong gia đình, là linh hồn của đám trẻ cùng lứa tuổi vì đầu óc thông minh, biết bày ra các trò chơi hấp dẫn, biết sáng tác ra đủ mọi thứ chuyện tưởng tượng.
Thời niên thiếu và thanh niên
Năm mười hai tuổi (1830), C. Mác vào học trường trung học ở Trier, học giỏi, đặc biệt nổi bật ở những lĩnh vực đòi hỏi tính độc lập sáng tạo. C. Mác cũng tỏ ra có năng lực về toán học.
Thời học phổ thông C. Mác may mắn có những thầy tốt như thầy hiệu trưởng trung học ở Trier dạy lịch sử và triết học, thầy dạy toán và vật lý – những người theo chủ nghĩa duy vật và có xu hướng tự do.
Mùa thu 1835, C. Mác tốt nghiệp trung học, sau đó, tháng Mười năm 1835, Mác vào trường Đại học Tổng hợp Bonn để học luật. Hai tháng sau, theo lời khuyên của bố, Mác theo học ở trường Đại học Tổng hợp Berlin. Năm 1836, trong dịp nghỉ hè, chàng thanh niên Mác đính hôn với người bạn gái từ thuở ấu thơ hơn Mác bốn tuổi, Gianny Vôn Vecphalen (Janny vôn Vestphalen), con gái viên Tam đẳng đại thần Luguy Vôn Vecphalen (Ludwig vôn Vestphalen) thuộc dòng dõi quý tộc. Ở trường Đại học Tổng hợp Berlin, năm 1836, ngoài luật học, sử học và ngoại ngữ Mác bắt đầu đi sâu nghiên cứu triết học. Mùa xuân 1837, Mác bắt đầu nghiên cứu kỹ tác phẩm của Hêgen (Hégel), sang năm 1839 thì vùi đầu vào nghiên cứu triết học, suốt cả năm 1939 và một phần của năm 1840 Mác tập trung nghiên cứu những vấn đề của lịch sử triết học Cổ đại. Ngày 15 tháng Tư năm 1841, khi mới 23 tuổi, C. Mác nhận được bằng Tiến sĩ triết học với luận án Về sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Đêmôcrit (Démocrite) và triết học tự nhiên của Êpiquơ tại trường Đại học Tổng hợp Jena.
Tháng Năm năm 1843, Mác đến Kroinak, một thành phố nhỏ vùng Rhein, nơi Gianny Vôn Vecphalen, vị hôn thê của Mác đang sống cùng với mẹ. Ngày 19 Tháng Sáu năm 1843, Mác chính thức làm lễ thành hôn với Gianny bất chấp sự phản đối kịch liệt của gia đình Gianny.
Những năm tháng sống ở nước ngoài
Cuối tháng Mười năm 1843, vợ chồng C. Mác đi Paris, thủ đô nước Pháp. Sau này, Mác có dịp đến Paris một vài lần nữa, nhưng chuyến đi Paris đầu tiên mà Mác lưu lại một năm rưỡi là quãng thời gian đầy ý nghĩa đối với sứ mệnh chính trị của C. Mác.
Lần đầu tiên, Các Mác gặp Phriđơrich Ăngghen vào cuối tháng Mười một năm 1842, khi Ăngghen trên đường sang Anh và ghé thăm Bộ Biên tập tờ Rheinische Zeitung (Nhật báo tỉnh Ranh). Mùa hè năm 1844, Ăngghen đến thăm Mác ở Paris. Trong 10 ngày ở thăm Paris, Mác và Ăngghen đã có nhiều cuộc nói chuyện cởi mở và từ cuộc gặp gỡ này hai ông đã trở thành những người bạn cùng chung lý tưởng và quan điểm trong tất cả vấn đề lý luận và thực tiễn.
Theo yêu cầu của Chính phủ Vương quốc Phổ, Chính phủ Pháp đã trục xuất Mác. Ngày 3 tháng Hai năm 1845, Mác rời Paris đến Brucsen (Brussel) của Bỉ, ít lâu sau Ăngghen cũng đến đây và hai ông lại tiếp tục cộng tác chặt chẽ với nhau. Sau khi cách mạng năm 1845 ở Pháp nổ ra, Chính phủ Bỉ đã trục xuất Mác. Ông lại đến Paris, tháng Tư năm 1848, Mác cùng với Ăngghen đến Koln, một thành phố nhỏ trên bờ sông Rhein nước Đức, và tại đây Mác trở thành Tổng Biên tập tờ Báo Mới tỉnh Ranh, cơ quan của phái dân chủ. Năm 1849 Chính phủ Phổ đóng cửa tờ báo và trục xuất Mác. Ông lại đến Paris, nhưng lần này ông chỉ lưu lại 3 tháng. Tháng Tám năm 1849, từ Paris Mác đi Lơnđơn (London) thủ đô của Anh và sống đến cuối đời (1883).
Ngày 14 tháng Ba năm 1883, Các Mác qua đời ở Lơnđơn và được an táng tại nghĩa trang Haighết (Highgate), Bắc Lơnđơn.
Hoạt động cách mạng sôi nổi và con đường tìm ra quy luật lịch sử của Các Mác
Mới 19 tuổi (1837), Các Mác đã nghiên cứu kỹ tác phẩm của Hêghen (1770 -1831), triết gia Đức nổi tiếng và là người sáng lập ra học thuyết về phép biện chứng duy tâm. Đặc biệt, Mác chú ý đến triết học của Êpicuơ (Épicure) một trong những nhà tư tưởng lớn nhất thời Cổ đại. Quan tâm đến vấn đề thái độ của con người đối với thế giới xung quanh, Mác đã giải quyết được những vấn đề quan trọng như triết học có chứng minh tất cả những cái hiện tồn tại là hợp lý hay không, hay là nó chứa đựng trong bản thân nó cái cần phải có ngược với cái đang tồn tại. Mác đặc biệt đánh giá cao ý tưởng của Êpicuơ muốn vươn tới sự tự do và độc lập về tinh thần, muốn thoát khỏi những xiềng xích ràng buộc của tôn giáo và mê tín.
Trong luận án tiến sĩ Về sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Đêmôcrit và triết học tự nhiên của Êpicuơ (1841), Mác kịch liệt chống mê tín, dị đoan và mọi triết học phản động muốn việc nghiên cứu khoa học phải phục tùng lợi ích của tôn giáo. Tiếp theo, Mác đã viết một bài báo sắc sảo (2-1842) chống lại sự kiểm duyệt báo chí của chế độ chuyên chế Phổ, nhân đó lên án gay gắt các thể chế nhà nước Phổ. Mác phê phán mạnh mẽ hơn chế độ chuyên chế Phổ và những nhà tư tưởng bênh vực cho chế độ này khi trở thành người lãnh đạo báo Rheinische Zeitung vào tháng Mười năm 1842.
Tháng Giêng năm 1843, Chính phủ Phổ ký lệnh đình bản tờ báo. Marx càng nhận thức rõ hơn ở Vương quốc Phổ không thể công khai tuyên truyền cách mạng được. Từ thời điểm này trở đi vấn đề cơ bản mà Mác quan tâm là vấn đề cách mạng, bản chất, nguyên nhân và động lực của nó.
Công tác thực tiễn ở báo Rheinisehe Zeitung đã làm thay đổi về cơ bản thế giới quan của Mác, chuyển từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật và từ chủ nghĩa dân chủ – cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản. Nghiên cứu tác phẩm của Hêgen, Mác thấy rõ Nhà nước không phải là hiện thân của lý trí thế giới, hiện thân của cái chung đứng riêng các lợi ích riêng như Hêgen khẳng định. Mác thấy phải xét lại một cách có phê phán cái quan niệm duy tâm của Hêgen về xã hội và nhà nước, phát hiện những động lực thật sự của tiến bộ xã hội, những biện pháp và hình thức làm biến đổi thế giới bằng cách mạng. Thời kỳ này, Mác viết một công trình quan trọng phê phán học thuyết của Hêgen về Nhà nước và pháp luật, có nhan đề: Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêgen. Đóng góp to lớn về mặt lý luận của Mác trong quá trình phê phán Hêgen đưa ra một quan niệm đúng đắn về một chế độ xã hội dân chủ, ở đó nền dân chủ là sự tự quyết của nhân dân, lợi ích của nhân dân.
Tháng Hai năm 1844, trên tờ tạp chí Deutsch – Franzosische Jahrbucher Mác đăng bài Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêgen. Lời mở đầu, khẳng định rằng giai cấp có thể thực hiện việc giải phóng toàn thể nhân loại phải là giai cấp vô sản. Cũng trên tờ tạp chí này có hai tên tác giả đứng cạnh nhau: Các Mác và Pheđơrich Ăngghen, người sau này gắn liền với tên tuổi và học thuyết cách mạng của Các Mác. Tuy nhiên, những quan điểm mới của C. Mác trình bày trên tờ tạp chí Deutsch – Franzosische Jahrbucher chỉ là một giả thuyết thiên tài đối với sự phát triển lịch sử của xã hội. Nó cần được chứng minh về mặt lịch sử. Và Mác đã hướng toàn bộ hoạt động lý luận để phục vụ việc chứng minh này.
Hiện thực khách quan sinh động ở nước Pháp thời gian Mác sống ở Paris đã giúp Mác hiểu sâu hơn cơ cấu nội tại của sự phát triển chủ nghĩa tư bản và những mâu thuẫn của nó.
Từ tháng 4 – tháng 8 năm 1844. Mác viết Bản thảo kinh tế – triết học năm 1844, thực chất là những phôi thai của những tư tưởng hết sức quan trọng mà sau này Mác phát triển một cách khoa học trong bộ Tư bản.
Tháng 2/1845, cuốn sách Gia đình thần thánh của Mác và Ăngghen viết chung ra đời đã phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm chủ quan của phái Hêghen trẻ, thực chất là phê phán toàn bộ chủ nghĩa duy tâm, đồng thời nêu ra vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử. Thời kỳ hoạt động của Mác ở Paris kết thúc (2/1845), một thời kỳ mới sau đó mở ra với mục đích rõ ràng mà Mác tự đặt ra cho mình: đề xuất một học thuyết cách mạng mới.
Mác cùng với Ăngghen hợp sức viết Hệ tư tưởng Đức (1845 – 1846) tiếp tục phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen và phái Hêghen trẻ đồng thời phê phán chủ nghĩa duy vật không nhất quán của Luivich Phoiơbach. Trong cuốn Sự bần cùng của triết học (1847) Mác đã chống lại triết học tiểu tư sản của Pruđông và trình bày những cơ sở của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chính trị kinh tế học vô sản.
Năm 1848 được sự uỷ nhiệm của Đại hội II Liên đoàn những người cộng sản, Mác và Ăngghen viết Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản – một văn kiện mang tính chất cương lĩnh của chủ nghĩa Mác và đảng vô sản, nó soi sáng cho giai cấp công nhân toàn thế giới con đường đấu tranh để thoát khỏi chế độ nô lệ tư bản chủ nghĩa và đưa cách mạng vô sản đến thắng lợi. Mác và Ăngghen đã phân tích một cách sâu sắc vai trò của đấu tranh giai cấp trong lịch sử xã hội loài người. Cuộc đấu tranh giữa những người bị áp bức và những kẻ áp bức là động lực chủ yếu của sự phát triển lịch sử. Vạch rõ những quy luật chủ yếu của cuộc cách mạng vô sản, Mác và Ăngghen viết rằng, bước đầu tiên của cuộc cách mạng đó là “biến giai cấp vô sản thành giai cấp thống trị, là giành lấy dân chủ”. Tư tưởng đó là tư tưởng xác lập “chuyên chính của giai cấp vô sản” và khái niệm chuyên chính vô sản và nhà nước vô sản được thể hiện rất rõ trong Tuyên ngôn. Đồng thời Mác cũng khẳng định rõ đấu tranh giai cấp là động lực thúc đẩy xã hội phát triển và quy luật bạo lực cách mạng trong việc giành lấy chính quyền về tay giai cấp vô sản.
Tháng Sáu năm 1859, công trình thiên tài của Các Mác Góp phần phê phán môn chính trị kinh tế học ra đời viết về tiền tệ và lưu thông tiền tệ; nhưng điều đặc biệt quan trọng là lần đầu tiên tác phẩm đã trình bày học thuyết Mác xít về giá trị, cơ sở của học thuyết kinh tế của Các Mác.
Các Mác là người tổ chức và là lãnh tụ của Quốc tế cộng sản I thành lập ngày 28 Tháng 9 năm 1864 ở London. Mác dốc toàn bộ tâm sức của mình để thống nhất phong trào công nhân các nước liên hợp lại. Năm 1867, Bộ Tư bản (tập I) – tác phẩm chủ yếu của Mác ra đời. Tập II và III Mác không kịp hoàn tất, Ăngghen đảm nhiệm việc xuất bản hai tập này. Trong Bộ Tư bản của mình Các Mác đã trình bày những vấn đề hết sức quan trọng của sản xuất tư bản nói chung: sự chuyển hoá của tiền thành tư bản, giá trị thặng dư tuyệt đối, giá trị thặng dư tương đối, sự chuyển hoá giá trị thặng dư trở thành tư bản (tích luỹ tư bản), tích luỹ ban đầu của tư bản (tập I); những vấn đề về giá trị thặng dư và lợi nhuận, sự chuyển hoá của lợi nhuận thành lợi nhuận trung bình, tư bản cho vay và tư bản thương nghiệp, v.v…
Tóm lại, Mác đã vạch rõ quy luật giá trị thặng dư dưới hình thái giá trị thặng dư tuyệt đối và giá trị thặng dư tương đối; và quy luật giá trị với tư cách là quy luật chung của nền sản xuất hàng hoá được phát triển trong quy luật cung và cầu, trong những quy luật của lưu thông tiền tệ, v.v…Trong kết luận của bộ Tư bản, Mác nêu lên sự tất yếu phải thủ tiêu nền sản xuất tư bản chủ nghĩa và thay thế nó bằng một hình thái tổ chức cao hơn của xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Trong tác phẩm những năm cuối đời Mác nêu lên hình thức hợp lý nhất của chuyên chính vô sản là kiểu tổ chức chính trị như công xã Pari (Cuộc nội chiến ở Pháp – 1881).
Trong cuốn Phê phán cương lĩnh Gôta (1875), Mác đã kịch liệt phê phán những sai lầm cơ hội chủ nghĩa của những người lãnh đạo đảng xã hội dân chủ Đức, đề ra một vấn đề hết sức quan trọng về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản và hai giai đoạn của chủ nghĩa cộng sản, nghĩa là bản thân xã hội cộng sản phải phát triển qua hai giai đoạn: giai đoạn thấp – chủ nghĩa xã hội và giai đoạn cao – chủ nghĩa cộng sản. Năm 1876, sau khi Quốc tế I giải tán, Mác nêu lên ý kiến thành lập các đảng vô sản ở các nước là nhiệm vụ chính trị hàng đầu trong phong trào công nhân.
Tên tuổi của Các Mác cùng với Ăngghen mãi mãi đi vào lịch sử nhân loại như những người sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản khoa học có tác động to lớn và sâu rộng đối với nhân loại tiến bộ.