Anh hùng Bế Văn Đàn sinh năm 1931 ở xã Quang Vinh, huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng. Đồng chí xuất thân từ gia đình công nhân, mẹ chết sớm, cha làm thợ mỏ, chú hoạt động cách mạng bị giặc Pháp bắt và giết hại, đồng chí phải đi ở cho địa chủ từ nhỏ.
Chiến tranh đã lùi xa nhưng dư âm của nó vẫn còn in đậm trong tâm khảm của bao người. Dù thời gian có làm mờ dấu chân của những người lính đã ngã xuống trên chiến trường Điện Biên Phủ năm xưa, nhưng có một điều chắc chắn rằng, chiến thắng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” vẫn mãi là niềm tự hào, là nguồn động lực đối với dân tộc Việt Nam trên bước đường phát triển đất nước hôm nay. Tấm gương hy sinh anh dũng của đồng chí Bế Văn Đàn trong chiến dịch đã trở thành nguồn cổ vũ toàn mặt trận hăng hái xông lên tiêu diệt quân thù giành toàn thắng.
Anh hùng Bế Văn Đàn sinh năm 1931 ở xã Quang Vinh, huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng. Đồng chí xuất thân từ gia đình công nhân, mẹ chết sớm, cha làm thợ mỏ, chú hoạt động cách mạng bị giặc Pháp bắt và giết hại, đồng chí phải đi ở cho địa chủ từ nhỏ. Sau 5 năm đi ở, đồng chí trốn về ở với bà dì và tham gia du kích. Tháng 1/1949, đồng chí xung phong vào bộ đội, tham gia nhiều chiến dịch, trong từng chiến dịch đồng chí luôn nêu cao tinh thần dũng cảm, vượt mọi khó khăn, gian khổ, ác liệt, kiên quyết chấp hành mệnh lệnh nghiêm túc, chính xác và kịp thời.
Trong chiến dịch Đông Xuân năm 1953 – 1954, đơn vị hành quân đi chiến dịch, Bế Văn Đàn là liên lạc tiểu đoàn. Một đại đội của tiểu đoàn được giao nhiệm vụ bao vây giữ địch ở Mường Pồn. Lúc đó, khi thấy lực lượng ta ít, địch tập trung hai đại đội có phi pháo yểm trợ liên tiếp phản kích, nhưng cả hai lần chúng đều bị quân ta đánh bật. Cuộc chiến đấu diễn ra căng thẳng và quyết liệt. Địch liều chết xông lên. Ta kiên quyết ngăn chặn, chốt giữ. Cần có lệnh cho đại đội quyết tâm giữ ở Mường Pồn bằng bất cứ giá nào, để các đơn vị khác triển khai lực lượng, thực hiện các chủ trương của chiến dịch. Mặc cho bom rơi, đạn nổ, đồng chí đã dũng cảm vượt qua lưới đạn dày đặc của địch, xuống truyền đạt mệnh lệnh cho đại đội kịp thời, chính xác. Trong khi đó, trận chiến đấu diễn ra ngày càng ác liệt hơn, đồng chí được lệnh ở lại đại đội chiến đấu. Địch phản kích lần thứ ba, đại đội bị thương vong nhiều, chỉ còn 17 người, bản thân Bế Văn Đàn cũng bị thương. Một khẩu trung liên của đơn vị không bắn được vì xạ thủ hy sinh. Khẩu trung liên của bạn chiến đấu Chu Văn Pù cũng chưa bắn được vì không có chỗ đặt súng, tình thế hết sức khẩn trương, không ngần ngại Bế Văn Đàn chạy lại cầm 2 chân súng đặt lên vai mình và hô bắn. Đồng chí Pù còn do dự thì Bế Văn Đàn đã nói: ”Kẻ thù trước mặt, đồng chí có thương tôi thì bắn chết chúng nó đi’‘. Đồng chí Pù nghiến răng nổ súng vào đội hình quân địch quật ngã hàng chục tên. Địch hoảng hốt bỏ chạy, đợt phản kích này của chúng bị bẻ gãy. Trong lúc lấy thân mình làm giá súng, đồng chí Bế Văn Đàn bị hai vết thương nữa và đã anh dũng hy sinh khi hai tay còn ghi chặt súng trên vai mình.
Anh hùng Bế Văn Đàn lúc hy sinh là tiểu đội phó. Trong đại hội mừng công của đơn vị, Bế Văn Đàn được truy tặng Huân chương chiến công hạng nhất. Ngày 31/8/1955, đồng chí được Quốc hội truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và Huân chương quân công hạng Nhì.
Tháng 5 năm 1959 Đảng, Nhà nước và nhân dân địa phương đã tiến hành di chuyển hài cốt của đồng chí Bế Văn Đàn tại Mường Pồn, nơi đồng chí hy sinh quy tụ về Nghĩa trang Liệt sĩ A1, thành phố Điện Biên Phủ.
61 năm trôi qua, sự hy sinh anh dũng của đồng chí Bế Văn Đàn cùng bao anh hùng liệt sĩ trên chiến trường Điện Biên Phủ đã góp phần giúp cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do,… đã làm rạng rỡ dân tộc, vẻ vang giống nòi. Họ chết cho “Tổ quốc sống mãi”. Bởi vậy các thế hệ ngày nay cần tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước, bất khuất, kiên cường suốt mấy nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, xây dựng đất nước ngày một cường thịnh.